Hạ tầng số – Kinhdoanhtiepthi.com https://kinhdoanhtiepthi.com Cập nhật kiến thức, chiến lược, xu hướng và công cụ tiếp thị mới nhất Sat, 20 Sep 2025 07:31:30 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhtiepthi/2025/08/kinhdoanhtiepthi.svg Hạ tầng số – Kinhdoanhtiepthi.com https://kinhdoanhtiepthi.com 32 32 Chuyển đổi số đô thị: Tận dụng công nghệ để minh bạch hóa và tiết kiệm nguồn lực https://kinhdoanhtiepthi.com/chuyen-doi-so-do-thi-tan-dung-cong-nghe-de-minh-bach-hoa-va-tiet-kiem-nguon-luc/ Sat, 20 Sep 2025 07:31:24 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/chuyen-doi-so-do-thi-tan-dung-cong-nghe-de-minh-bach-hoa-va-tiet-kiem-nguon-luc/

Trong giai đoạn 2025-2035, đô thị thông minh sẽ cần một hạ tầng số tinh vi để giúp dữ liệu công trở thành công cụ ra quyết định, vận hành đô thị một cách minh bạch, theo thời gian thực và tiết kiệm nguồn lực. Công nghệ blockchain đang ngày càng chứng minh vai trò quan trọng trong việc kiến tạo đô thị vận hành bằng dữ liệu mở.

Đà Nẵng chuyển mình thành đô thị số từ những định hướng liên quan đến dữ liệu và nền tảng số. Ảnh: XUÂN SƠN
Đà Nẵng chuyển mình thành đô thị số từ những định hướng liên quan đến dữ liệu và nền tảng số. Ảnh: XUÂN SƠN

Công nghệ blockchain được xem là một hạ tầng mềm quan trọng cho đô thị thế hệ mới, bên cạnh hạ tầng cứng như điện, nước, giao thông. Theo ông Trần Huyền Dinh, Chủ nhiệm Ủy ban Ứng dụng Fintech, Hiệp hội Blockchain Việt Nam, giá trị cốt lõi của blockchain nằm ở khả năng lập trình hóa quy trình, phi vật chất hóa dữ liệu và phân tán trách nhiệm vận hành theo một chuẩn mực kiểm chứng công khai.

Ký kết 19 biên bản ghi nhớ hợp tác tại SURF 2025
Ký kết 19 biên bản ghi nhớ hợp tác tại SURF 2025

Khi dữ liệu công được ghi nhận trên một blockchain mở, mọi thao tác chỉnh sửa, can thiệp hay sai lệch đều bị phát hiện ngay lập tức. Điều này giúp làm trong sạch hóa vận hành công và giảm thiểu tiêu cực. Nhiều doanh nghiệp công nghệ đã ứng dụng blockchain tại các địa phương, từ sàn giao dịch tài sản số đến nền tảng thanh toán DeFi và hệ thống blockchain nội bộ hỗ trợ truy xuất dữ liệu kim hoàn, tài sản đô thị và tín nhiệm tài chính công.

Những startup ứng dụng công nghệ số, số hóa dữ liệu góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng đô thị thông minh. Ảnh: PHAN VINH
Những startup ứng dụng công nghệ số, số hóa dữ liệu góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng đô thị thông minh. Ảnh: PHAN VINH

Để xây dựng đô thị thông minh, việc thiết kế lại cấu trúc dữ liệu nền là quan trọng. Các thành phố như Singapore, Hàn Quốc, Thụy Sĩ và Hồng Kông đã bắt đầu quá trình chuyển đổi số bằng cách chuẩn hóa dữ liệu công, lựa chọn công nghệ phù hợp và tạo sandbox để kiểm nghiệm thực tế từng ứng dụng trước khi nhân rộng.

Công nghệ blockchain giúp khôi phục niềm tin giữa người dân và chính quyền thông qua khả năng xác minh công khai mọi quyết định của Nhà nước. Hệ thống sổ cái phân tán (DLT) tạo ra bản ghi chính thức và chống lại việc sửa lại quá khứ, giúp tăng cường minh bạch trong quản trị đô thị. Một thành phố minh bạch không phải là nơi không có lỗi, mà là nơi mọi quyết định đúng hay sai đều để lại dấu vết và có thể được kiểm tra, phản biện, đánh giá bằng dữ liệu thật.

Hiện tại, một số công ty đang xây dựng các bộ công cụ để hỗ trợ chính quyền địa phương triển khai hệ thống truy xuất công khai trên dữ liệu ngân sách, giấy phép xây dựng và đất công thông qua giao diện trực tuyến. Việc áp dụng công nghệ blockchain vào quản lý đô thị thông minh sẽ giúp các thành phố trở nên minh bạch và hiệu quả hơn.

]]>
Hà Nội đẩy mạnh xây dựng chính quyền số, kinh tế số và xã hội số https://kinhdoanhtiepthi.com/ha-noi-day-manh-xay-dung-chinh-quyen-so-kinh-te-so-va-xa-hoi-so/ Sun, 07 Sep 2025 00:31:01 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/ha-noi-day-manh-xay-dung-chinh-quyen-so-kinh-te-so-va-xa-hoi-so/

Hà Nội đang đẩy mạnh chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực, từ xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số đến hiện đại hóa phương thức phục vụ. Thành phố đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Ngay từ đầu năm 2025, UBND TP. Hà Nội đã chỉ đạo quyết liệt việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Quyết định số 204-QĐ/TW của Ban Bí thư về chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng. Thành phố tập trung vào các trụ cột như hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.

Về xây dựng chính quyền số, Hà Nội triển khai hiệu quả 5 trụ cột: Hạ tầng số, nền tảng và hệ thống số, dữ liệu số, ứng dụng dịch vụ số và đảm bảo an toàn thông tin mạng. Dữ liệu trong các lĩnh vực then chốt như người có công, an sinh xã hội, hộ tịch, bảo trợ xã hội và trẻ em đã được chuẩn hóa, làm sạch và liên thông.

Trong giáo dục, Hà Nội đã thí điểm học bạ số cho toàn bộ học sinh THCS và trung tâm giáo dục thường xuyên từ học kỳ II năm học 2024-2025. Lĩnh vực giao thông cũng chứng kiến bước đột phá khi Thành phố tiên phong ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong điều hành, tối ưu hóa đèn tín hiệu và xử lý vi phạm giao thông.

Trong hệ thống các cơ quan Đảng, đoàn thể Thành phố, chuyển đổi số được Thành ủy Hà Nội chỉ đạo quyết liệt với nhiều sáng kiến đồng bộ. Một dấu ấn nổi bật là việc tích hợp thành công 4 thủ tục hành chính Đảng lên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Văn Phong nhấn mạnh: ‘Dữ liệu số là tài sản, là nền tảng cho phát triển và quản trị thông minh. Người đứng đầu các đơn vị phải trở thành hạt nhân, người truyền cảm hứng và dẫn dắt công cuộc chuyển đổi số’.

Hà Nội cũng là địa phương đi đầu trong thực hiện Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Thành phố triển khai hiệu quả các nền tảng như: Ứng dụng Công dân Thủ đô số – iHanoi, sổ sức khỏe điện tử, cấp lý lịch tư pháp trên VNeID…

Tới đây, Hà Nội sẽ tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số hiện đại, phục vụ toàn diện cho người dân và doanh nghiệp.

]]>
Bộ KH&CN: Tạo động lực để khoa học – công nghệ “ra trận”, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế https://kinhdoanhtiepthi.com/bo-khcn-tao-dong-luc-de-khoa-hoc-cong-nghe-ra-tran-ho-tro-tang-truong-kinh-te/ Sun, 31 Aug 2025 08:47:17 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/bo-khcn-tao-dong-luc-de-khoa-hoc-cong-nghe-ra-tran-ho-tro-tang-truong-kinh-te/

Hoàn thiện thể chế là yêu cầu cấp thiết và điều kiện tiên quyết để khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực trung tâm cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Bộ Khoa học và Công nghệ đang nỗ lực hoàn thiện thể chế để khoa học ‘ra trận’, công nghệ ‘ra thị trường’, và dữ liệu trở thành tài sản chiến lược.

Hạ tầng số được xác định là nền tảng chiến lược của quốc gia số, tương đương với hạ tầng giao thông và điện lực. Việc phổ cập hạ tầng số với băng thông siêu rộng và dung lượng siêu lớn là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế số. Phủ sóng 5G sâu rộng trên toàn quốc là nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới. Mục tiêu này không chỉ giúp Việt Nam bắt kịp với xu hướng phát triển của thế giới mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ số vào mọi mặt của đời sống.

Chuyển đổi số là quá trình số hóa toàn diện, ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo để xử lý dữ liệu số, với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia số. Quá trình này cần tạo ra mức tăng trưởng kinh tế tương ứng từ 1-1,5%. Để đạt được mục tiêu này, việc đầu tư vào hạ tầng số và phát triển các ứng dụng số là điều cần thiết.

Quản lý khoa học theo kết quả đầu ra là hướng đi mới trong quản lý khoa học và công nghệ. Nhà nước chi 1 đồng cho nghiên cứu thì kết quả nghiên cứu đó phải tạo ra ít nhất 10 đồng doanh thu mới. Khoa học và công nghệ phải hướng tới mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.

Đổi mới sáng tạo là con đường để Việt Nam đưa khoa học và công nghệ ứng dụng vào cuộc sống. Đổi mới sáng tạo phải giúp Việt Nam tăng trưởng thêm 3% GDP mỗi năm. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đổi mới sáng tạo.

Phát triển tài sản trí tuệ và chuẩn hóa tiêu chuẩn quốc gia là hai nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới. Chuyển dịch quan trọng nhất trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là chuyển từ bảo vệ quyền sang tài sản hóa, thương mại hóa và thị trường hóa các kết quả nghiên cứu. Điều này sẽ giúp tạo ra giá trị kinh tế từ các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Bộ Khoa học và Công nghệ đang đẩy mạnh hoàn thiện khung pháp lý cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Từ nay đến cuối năm 2025, Bộ sẽ phải hoàn thành và thông qua 4 luật, bao gồm 1 luật mới và 3 luật sửa đổi. Thể chế đổi mới sẽ gắn nghiên cứu với thị trường và quốc tế. Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi sẽ tạo ra thông thoáng cho hoạt động nghiên cứu với mục tiêu là tạo ra nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi sẽ biến các kết quả nghiên cứu này thành tài sản trí tuệ để giao dịch được.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh rằng bây giờ là lúc phải hành động quyết liệt và hiệu quả, làm thật nhiều, làm những việc lớn, hướng đến kết quả cuối cùng là tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Điều này đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội.

]]>
Chuyển đổi số khu vực công: Thiếu hạ tầng, nhân lực và bảo mật mạng https://kinhdoanhtiepthi.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-thieu-ha-tang-nhan-luc-va-bao-mat-mang/ Mon, 25 Aug 2025 11:17:07 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-thieu-ha-tang-nhan-luc-va-bao-mat-mang/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức và rào cản đáng kể. Theo đánh giá của ông Nguyễn Hữu Thái Hòa, Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM – VUSTA, Chủ tịch VDIC, Trung tâm Thông tin Truyền thông số Việt Nam của Hội Truyền Thông Số, việc chuyển đổi số chỉ thực sự hiệu quả khi được gắn kết chặt chẽ với cải cách thể chế, quản trị và đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Nếu không, rất khó để tạo ra những đột phá thực chất.

Một trong những rào cản lớn mà ông Hòa chỉ ra là hạ tầng công nghệ thông tin tại các cơ quan Nhà nước còn rất lạc hậu, thiếu sự đồng bộ và khả năng tích hợp. Nhiều cơ quan vẫn sử dụng hệ thống lưu trữ dữ liệu rời rạc, không tương thích, gây ra khó khăn lớn cho việc kết nối và chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành và địa phương. Sự thiếu đồng bộ và thống nhất trong kiến trúc công nghệ thông tin khiến việc kết nối dữ liệu dân cư, thuế, y tế, tài chính… trở thành một bài toán khó, dù đã có những đầu tư lớn trong nhiều năm qua.

Tổng mức đầu tư cho các chương trình chuyển đổi số trong khu vực công đã lên tới hàng nghìn tỷ đồng, bao gồm đầu tư vào hạ tầng dữ liệu dân cư, căn cước công dân gắn chip, Cổng dịch vụ công quốc gia, nền tảng số ngành dọc… Tuy nhiên, thực trạng cho thấy sự phân bổ ngân sách không đều giữa trung ương và địa phương đã khiến các cấp cơ sở gặp khó khăn trong việc triển khai đồng bộ các chương trình chuyển đổi số.

Ngoài ra, chuyển đổi số trong khu vực công còn đối mặt với thách thức về nhân lực công nghệ cao. Các chuyên gia giỏi về trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, phân tích dữ liệu thường có xu hướng lựa chọn làm việc trong khu vực tư nhân hoặc các công ty công nghệ lớn do chính sách lương thưởng hấp dẫn. Trong khi đó, cán bộ, công chức tại nhiều cơ quan hành chính, đặc biệt ở cấp huyện, xã, còn thiếu kỹ năng số, cũng như thiếu động lực và tâm thế để thích nghi với công nghệ mới.

Một thách thức khác mà ông Hòa nhấn mạnh là nguy cơ tấn công mạng ngày càng tăng khi dữ liệu nhạy cảm như thông tin công dân, tài chính, y tế… được số hóa và lưu trữ tập trung, nhưng lại thiếu các lớp bảo vệ pháp lý và công nghệ tương xứng. Hiện hệ thống pháp luật về bảo mật dữ liệu, an toàn thông tin, lưu trữ số… vẫn chưa bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ, gây ra khoảng trống trong việc xử lý sự cố và đảm bảo niềm tin số cho người dân.

Để tháo gỡ những nút thắt hiện nay, ông Hòa đề xuất một số giải pháp quan trọng. Thứ nhất, cần tăng ngân sách để đầu tư vào hạ tầng số và phát triển nguồn nhân lực số cho khu vực công. Thứ hai, cần khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia cung cấp giải pháp số cho khu vực công. Thứ ba, việc xây dựng một trung tâm giám sát an ninh mạng quốc gia là cần thiết để nâng cao khả năng bảo vệ an ninh mạng. Cuối cùng, cần ban hành một khung pháp lý chặt chẽ về bảo mật dữ liệu, quyền riêng tư và lưu trữ số để đảm bảo môi trường pháp lý an toàn cho việc chuyển đổi số trong khu vực công.

]]>
76.000 doanh nghiệp công nghệ số đang làm việc, chuyển đổi số ở đâu? https://kinhdoanhtiepthi.com/76-000-doanh-nghiep-cong-nghe-so-dang-lam-viec-chuyen-doi-so-o-dau/ Mon, 18 Aug 2025 06:31:10 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/76-000-doanh-nghiep-cong-nghe-so-dang-lam-viec-chuyen-doi-so-o-dau/

Việt Nam hiện có gần 76.000 doanh nghiệp công nghệ số, với 739 doanh nghiệp mới thành lập trong tháng 5. Đây là một trong những tín hiệu tích cực trong quá trình phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của đất nước.

Ngày 20/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chủ trì phiên họp lần thứ 3 của Ban Chỉ đạo về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06. Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong 6 tháng đầu năm, các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành 76/106 nhiệm vụ theo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW.

Việc xây dựng thể chế, phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực và tài chính cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã đạt nhiều kết quả tích cực. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 16 dự án luật và 3 nghị quyết, đồng thời ban hành 21 nghị định để tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy các lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Tính đến nay, cả nước có 889 tổ chức nghiên cứu và 858 doanh nghiệp khoa học công nghệ, với hơn 42.000 lao động. Cổng sáng kiến giải pháp khoa học công nghệ và Sàn giao dịch khoa học công nghệ quốc gia đã được khai trương, góp phần kết nối sáng kiến với thị trường.

Về chuyển đổi số quốc gia, các bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh triển khai trên các trụ cột: Hạ tầng số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh. Tốc độ mạng di động và cố định của Việt Nam đã tăng mạnh, lần lượt đứng thứ 20 và 26 thế giới. Số lượng trạm 5G đã tăng hơn 4.200 trạm trong 6 tháng đầu năm, với tổng số 12.106 trạm.

Hai tuyến cáp quang biển mới đã đi vào hoạt động, tăng gấp đôi dung lượng hệ thống cáp quang biển quốc tế của Việt Nam. Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình trên tổng hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính đã đạt gần 40% trong tháng 6. Văn phòng Chính phủ đã tham mưu Thủ tướng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Về kinh tế số, doanh thu 6 tháng đầu năm đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ. Số lượng doanh nghiệp công nghệ số đã tăng lên gần 76.000, với 739 doanh nghiệp mới thành lập trong tháng 5.

Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc, với 30 nhiệm vụ quá hạn trong số 106 nhiệm vụ được giao. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung vào phát triển công nghệ chiến lược và ngành công nghiệp nền tảng trong 6 tháng cuối năm. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phủ sóng vùng lõm, thúc đẩy nhanh mạng 5G.

Tập đoàn VNPT sẽ khẩn trương hoàn thành cơ sở hạ tầng tại 238 thôn bản lõm sóng trước ngày 31/8 và phát sóng chậm nhất tại 238 thôn bản trong tuần thứ 2 của tháng 9. Trong cải cách thủ tục hành chính, các bộ, ngành phải rà soát 1.139 thủ tục để cắt giảm hồ sơ, đồng thời đơn giản hóa quy trình, chuyển toàn bộ thủ tục sang hình thức trực tuyến và triển khai đồng bộ tại chính quyền địa phương hai cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

]]>
Quảng Ninh đẩy mạnh xây dựng nền hành chính số với hạ tầng số vững chắc https://kinhdoanhtiepthi.com/quang-ninh-day-manh-xay-dung-nen-hanh-chinh-so-voi-ha-tang-so-vung-chac/ Sun, 03 Aug 2025 01:17:25 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/quang-ninh-day-manh-xay-dung-nen-hanh-chinh-so-voi-ha-tang-so-vung-chac/

Quảng Ninh đang tích cực triển khai các giải pháp để xây dựng một nền hành chính hiện đại, minh bạch, hiệu quả và gần gũi với người dân. Những nỗ lực này đã mang lại kết quả đáng kể trong việc phát triển hạ tầng số, dữ liệu số, dịch vụ số và chính quyền số.

Sở Nội vụ tập huấn kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) cho cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị.
Sở Nội vụ tập huấn kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) cho cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị.

Tỉnh đã thử nghiệm và vận hành hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Hệ thống này giúp người dân, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện các TTHC một cách nhanh chóng, minh bạch, tiết kiệm thời gian và chi phí. Hệ thống thông tin giải quyết TTHC đã được triển khai tại Trung tâm Phục vụ hành chính công (PVHCC) tỉnh và các trung tâm PVHCC cấp xã. Điều này cho phép cán bộ làm nhiệm vụ giải quyết TTHC thực hiện công việc một cách dễ dàng và minh bạch. Mọi trạng thái của hồ sơ từ tiếp nhận đến trả kết quả đều được hiển thị trên hệ thống điện tử, đảm bảo công khai và giám sát dễ dàng.

Tỉnh Đoàn tổ chức các lớp "Bình dân học vụ số", phổ biến kỹ năng ứng AI cho người trung niên, người cao tuổi.
Tỉnh Đoàn tổ chức các lớp “Bình dân học vụ số”, phổ biến kỹ năng ứng AI cho người trung niên, người cao tuổi.

Tính đến đầu tháng 7/2025, toàn tỉnh có 2.023 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết các cấp, trong đó 1.874 thủ tục đủ điều kiện cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến, với 80,31% là dịch vụ công toàn trình. Kết quả này thể hiện quyết tâm cao của tỉnh trong việc hiện đại hóa nền hành chính công và lấy người dân làm trung tâm.

Quảng Ninh cũng chủ động xây dựng hạ tầng số vững chắc, đảm bảo vận hành an toàn hệ thống thông tin trọng yếu phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan, đơn vị từ tỉnh đến cơ sở. Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến được phát triển mạnh, hỗ trợ tổ chức họp, hội nghị nhanh chóng, tiết kiệm và hiệu quả.

Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng xây dựng, kết nối, liên thông các cơ sở dữ liệu dùng chung giữa các ngành, lĩnh vực để chuẩn bị cho việc số hóa toàn diện đời sống kinh tế – xã hội thời gian tới. Tỉnh cũng đưa các nền tảng số, công nghệ số, kỹ năng số đến từng hộ gia đình, người dân, coi đây là xu hướng tích cực, lan tỏa văn hóa số trong toàn xã hội.

Tỉnh đã phát động phong trào “Bình dân học vụ số” toàn tỉnh, nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân; đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong chỉ đạo, điều hành. Đặc biệt, tỉnh đã phát huy hiệu quả các tổ công nghệ số cộng đồng tại các địa phương, giúp tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến, sử dụng ứng dụng số và tiếp cận thông tin chính thống.

]]>
Chuyển đổi số hạ tầng công: Đầu tư thông minh để phát triển thực sự https://kinhdoanhtiepthi.com/chuyen-doi-so-ha-tang-cong-dau-tu-thong-minh-de-phat-trien-thuc-su/ Wed, 23 Jul 2025 10:39:22 +0000 https://kinhdoanhtiepthi.com/chuyen-doi-so-ha-tang-cong-dau-tu-thong-minh-de-phat-trien-thuc-su/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam hiện nay đang là một yêu cầu thiết yếu để đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời đại công nghệ số. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất là làm thế nào để đầu tư vào chuyển đổi số một cách hiệu quả và tạo ra sự phát triển bền vững. Về vấn đề này, ông Nguyễn Minh Khôi, Giám đốc Chính sách & Chuyển đổi tại Viện Tony Blair vì Thay đổi Toàn cầu, đã chia sẻ một số quan điểm quan trọng.

Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Phạm Mạnh Hùng trao đổi ý kiến cùng các đại biểu tham gia diễn đàn.
Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Phạm Mạnh Hùng trao đổi ý kiến cùng các đại biểu tham gia diễn đàn.

Ông Khôi cho rằng, trong quá trình chuyển đổi số, nhiều quốc gia và tổ chức thường chỉ tập trung vào xây dựng hạ tầng phần cứng và nâng cao kỹ năng công nghệ thông tin (CNTT) cơ bản. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chưa đủ để tạo ra một sự chuyển đổi số thực sự hiệu quả và bền vững. Thay vào đó, Việt Nam cần thay đổi tư duy và xác định mục tiêu xây dựng một hệ sinh thái số toàn diện.

Một hệ sinh thái số bao gồm ba yếu tố quan trọng: hạ tầng, thể chế và con người. Hạ tầng ở đây không chỉ là các phần cứng và mạng lưới công nghệ thông tin, mà còn bao gồm các nền tảng số và dịch vụ trực tuyến. Thể chế liên quan đến việc xây dựng các chính sách, quy định và luật pháp hỗ trợ cho sự phát triển của hệ sinh thái số. Cuối cùng, con người là những người sẽ trực tiếp tham gia vào quá trình chuyển đổi số, từ việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến cho đến việc cung cấp các dịch vụ và giải pháp số.

Để vận hành hệ sinh thái số một cách hiệu quả, cần có một nền tảng điều phối chính sách, dữ liệu và dịch vụ công. Nền tảng này sẽ giúp kết nối các bộ phận khác nhau của hệ sinh thái số, từ đó tạo điều kiện cho việc chia sẻ dữ liệu, cải thiện hiệu suất và nâng cao chất lượng dịch vụ công. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chính phủ, các tổ chức và doanh nghiệp.

Xây dựng một hệ sinh thái số như vậy không chỉ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu chuyển đổi số trong khu vực công, mà còn góp phần vào việc kiến tạo sự phát triển bền vững. Khi các dịch vụ công được số hóa và tích hợp vào một nền tảng thống nhất, người dân và doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận các dịch vụ này hơn, từ đó nâng cao trải nghiệm và giảm thiểu thời gian, chi phí giao dịch.

Ngoài ra, một hệ sinh thái số phát triển còn tạo điều kiện cho việc thu thập, phân tích và sử dụng dữ liệu một cách hiệu quả. Dữ liệu sẽ trở thành tài nguyên quan trọng trong việc ra quyết định chính sách và cải thiện các dịch vụ công. Để làm được điều này, Việt Nam cần đầu tư vào các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và bảo mật thông tin.

Viện Tony Blair vì Thay đổi Toàn cầu là một tổ chức quốc tế致力 vào việc hỗ trợ các quốc gia trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu và tạo ra sự phát triển bền vững. Với kinh nghiệm và chuyên môn trong lĩnh vực chuyển đổi số, Viện Tony Blair sẵn sàng hợp tác với chính phủ Việt Nam và các đối tác để xây dựng và triển khai các chiến lược chuyển đổi số hiệu quả.

Tóm lại, chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam không chỉ là vấn đề đầu tư vào công nghệ, mà còn là việc xây dựng một hệ sinh thái số toàn diện, bao gồm hạ tầng, thể chế và con người. Bằng cách tập trung vào việc xây dựng nền tảng điều phối chính sách, dữ liệu và dịch vụ công, Việt Nam có thể tạo ra một sự phát triển bền vững và tận dụng được các cơ hội của thời đại số.

]]>